Bệnh án đông y Đau bụng gan
BỆNH ÁN ĐAU GAN, ĐAU BỤNG
(Can tỳ khô lạnh)
Bệnh nhân:.…………..( nữ), 48 tuổi.
Vào viện: ngày 21-2-1979, Ra vịên 16-5-1979.
Bếnh án số: 0847, Cơ sở Thừa kế, Viện YDHDT.
Chứng bệnh
Ít ngủ, thường xuyên mất ngủ, ăn bình thường biết ngon, thỉnh thoảng bụng đầy nhất là lúc ăn đồ mỡ, có khi táo bón, đau quanh vùng bụng, đau nhiều về phía phải, lúc mệt hay ngột thở, sinh nở 2 lần, 48 mãn kinh, tiền sử có sốt rét cách đây 10 năm.
Khám
Vọng: Mặt xanh tái, sắc mặt tối, da nhăn nheo, lưỡi khô.
Thiết: trau phải trầm tế tiểu, tay trái cứng nhỏ đi chậm.
Đoán bệnh: Tỳ khí suy, can huyết khô, thận thủy kém.
Thuốc chữa.
Xuyên khung | 10g | Trắc bá diệp (sao) | 20g |
Phá cổ chỉ | 10g | Hương phụ | 10g |
Đại hồi hương | 4g | Quế khâu | 4g |
Hắc khương | 4g | Biển đậu (sao) | 10g |
Cho 4 thang- tuần.
Khám kỳ II. Y đơn trên, cho 8 thang uống 2 tuần.
Bệnh nhân đến khám 6 kỳ, trước sau chỉ uống 1 đơn 8 vị trên, từ kỳ III mỗi thang thêm Quế khâu 4g, Hắc khương 4g nữa, ngoài ra không thay đồi gì khác.
Bệnh nhân uống đến hết bệnh đến xin ra viện (16-5-79).
THẢO LUẬN BỆNH ÁN
Bệnh lý
Gương mặt tối, da nhăn nheo xanh tái là dương khí suy không đủ sức vinh nhuận lên đầu mặt.
Lưỡi khô là tâm huyết kém, vị quản khô không đủ tân dịch đưa lên miệng.
Đau quanh vùng bụng phía phải là can huyết ít mà lạnh cho nên da thịt khô, người gầy yếu.
Ăn tuy bình thường biết ngon, nhưng xét ra miễn cưỡng ăn cho có bữa vì hay đầy bụng tức là tỳ khí tuy còn nhưng tỳ âm đã kém, ăn không đủ dinh dưỡng lấy gì dinh dưỡng cho phế khí cho nên ngộp thở.
Mất ngủ thường xuyên, cứ bảo rằng tim nóng thực ra tim thiếu máu mà lạnh, mất ngủ do tim lạnh cũng nhiều đâu có hẳn là tim nóng mới mất ngủ.
Đúng với mạch tay phải trầm tế tiểu, tức là dương khí ở tỳ vị thiếu mà lạnh, mạch tay trái cứng nhỏ đi chận tức là can huyết thiếu mà thận cung cũng sút kém, cho nên nói rằng bệnh đau gan đau bụng này bởi can tỳ thận khô lạnh.
Thường thường các bệnh, bệnh nào đã khô thì nhiệt, thế mà bệnh này khô lạnh, mà cũng bởi hợp với 48 tuổi mãn kinh sớm hơn lệ thường 1 năm, đúng ra 49 tuổi tức 7×7 (thất thất) mới mãn kinh, kinh kỳ đã hết là nước trong thận ( thiên quý) đã cạn mà mạch máu không còn đủ nước lưu thông điều hòa.
Các mạch máu trong đường kinh đã thiếu thì can, tỳ, thận phải khô.
Tóm lại, bệnh này bởi tỳ khí thiếu, can huyết khô, thận thủy cũng sút kém mà đều thuộc hàn.
Y lý
Khô thì phải tưới nước cho tươi nhuần, lạnh thì phải ấp ủ cho ấm đó là lẽ đương nhiên, nhưng cho tươi nhuần, cho ôn ấm phải nhằm đúng vào kinh mạch vị trí nào bị khô bị lạnh.
Tỳ khí thiếu mà lạnh phải ôn bổ tỳ khí.
Can huyết khô mà lạnh phải đem nước mà có chất ôn rót vào thận.
Tất cả, can tỳ, thận đã nhuận, đã ôn, đã có lực, thì mạch trầm tiểu sẽ trở nên mạch có thực lực.
Dược lý
Bệnh này theo cổ phương điều trị dùng thuốc Bắc.
– Đương quy đi với Khương là chất máu nóng tưới vào can.
– Thục địa đi với Khương là chất nước màu ôn ấm rót vào thận.
– Sâm truật đi với Khương thành thuốc bổ khí có chất ôn cho tỳ tất cả là chỉnh lý, là diệu dược.
Nhưng ta chỉ dùng thuốc Nam thì ta chiều theo ý nghĩa dược lý ấy mà thay vào.
– Đem lá Trắc bá sao vàng sẫm (thay Thục địa) đi với Khương Quế là nước mà ôn ấm tưới cho thận, đồng thời đem Phá cố chỉ với Đại hồi hương bổ thận, chấn hưng thận khí.
– Đem Xuyên khung đi với Hương phụ hiệp với nước Trắc bá đó thành chất máu nóng tưới vào can để bổ huyết, thông can khí.
– Đem Biển đậu sao vàng sẫm, sát bỏ vỏ chỉ dùng nhân (thay bạch truật) chú ý bổ tỳ vị, Biển đậu lại nhờ sức Khương, Hồi biến thành chất bổ khí cho tỳ.
Nhìn chung cả bài thuốc, thấy rằng ôn dược phần nhiều hơn, sự có thể trở thành can nhiệt, nhưng lá Trắc bá dùng 20 gam thì sau đó. Bù lại hòa đồng với nhau sẽ trở thành thuốc ôn nhuận đúng với căn bệnh.
Trước sau tôi vẫn dùng 8 vị thuốc ấy cho uống, dù mỗi khi bệnh nhân đến tái khám nói rằng bệnh còn thế nọ thế kia, thuốc vẫn không thay đổi, vậy mà bệnh nhân uống đến khỏi bệnh, phấn khởi vui mừng khi ra viện nói rằng: “Nhờ thầy con thấy khỏe lại và lên cân”.
Như vậy thuốc Nam mà biết dùng là diệu dược.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét