Bệnh án rong kinh do tỳ thận hư hàn
RONG KINH, LOẠN KINH
(Tỳ thận hư hàn)
Bệnh nhân:………………( nữ), 23 tuổi.
Cửa hàng trưởng, Công ty thương nghiệp An giang.
Vào viện: 24-4-78.
Số bệnh án: 841, bệnh viện YDHDT Thành phố, trước do bác sĩ điều trị đến 20-7-78 chuyển cho tôi chữa.
Chứng bệnh
Kinh hành 8-9 ngày, hết 8-9 ngày lại có, khi có cả tháng hết vài ngày lại có, khi kinh ra nhiều cả huyết cục, huyết trắng cũng nhiều, khi ra kinh nếu gặp lúc đi tiểu nó còn tiểu ra kinh rất nhiều, đau lưng, lạnh chân mỏi gối, đau sống cổ, đổ nhiều mồ hôi, đau bụng chóng mặt nhức hàm răng, nóng ngực ăn kém, táo bón, ngủ chập chờn.
Vọng: Sắc mặt trắng bệch, nhiều mụn, lưỡi to dày, rêu lưỡi nhớt trắng, da xanh mét.
Văn: thở hơi uể oải, tiếng nói ồ ồ.
Vấn: Ăn uống cố gắng không được mức bình thường.
Thiết: Tay tả trầm tiểu, huyền khẩn.
Tay hữu trầm tiểu và có hoạt tiểu.
Thuốc chữa:
Hương phụ | 20g | Hắc hương | 12g |
Lá ngãi cứu | 12g | Đương quy | 8g |
Bạch truật | 12g | A giao | 12g |
Bệnh nhân nằm điều trị tại viện 6 tuần, ba tuần đầu mỗi tuần 3 thang, ba tuần sau mỗi tuần 4 thang.
Thời gian uống thuốc, tuần đầu kinh tạm ngưng, tuần III bệnh nhân phát biểu: “Đời con đã bi quan, nay thấy lạc quan “.
Tuần cuối, bệnh nhân khỏe, vui vẻ xin ra viện (26-8-78) trong 5 tuần đầu chỉ uống 1 đơn trên, tuần cuối đổi đơn ra viện về được chắc chắn.
Bạch truật | 12g | Đương quy | 12g |
Hắc khương | 12g | A giao | 12g |
Bốn đơn ra viện.
THẢO LUẬN
Da xanh mét, lưỡi to dày, rêu lỡi trắng nhớt là sức nóng ấm (dương khí) của tỳ vị, tỳ vị thiếu nóng ấm thì yếu lạnh kém tiêu hóa kém tiêu hóa thì kém ăn phải uống nước nhiều, lại thích đồ mát đố ngọt, dạ dày úng thũng làm lưỡi to dày, nhớt trắng ứ đọng và người béo bệu, bón, bởi tỳ vị hàn thấp tiêu hóa không đều đường đại khi bài tiết phải bòn cho ra đó là tỳ vị hư hàn.
Đau ngang eo lưng, lạnh chân, mỏi gối.
Sức ấm nóng (dương khí) của can thận thiếu không đủ điều khiển được các mạch máu cho điều hàng tháng mà kinh kỳ trồi sụt linh tinh, lại cũng không giằn giữ được huyết dể cho rong kinh kéo dài. Can thận thiếu máu mà máu lạnh thì chân gối lưng mỏi lạnh.
Lúc đi tiểu đường kinh cũng theo ra mà ra nhiều, bởi thận đã hư hàn không giữ được huyết thì huyết chảy ra, yên tĩnh bất động thì huyết bơi chảy ra, nếu cử động vào nó, nó sẽ chảy ra nhiều, bởi vậy khi đi tiểu động đến khí ở bàng quang thì huyết ở thận chuyển hướng bàng quang mà ra.
Đau sống lưng, đau bụng, đều về phía tay trái, tay trái thuộc huyết, huyết lạnh lại ra nhiều thì đau phía đó, đó là can thận hư hàn.
Tai sao biết tỳ vị và can thận hư hàn?
Căn cứ vào mạch, mạch tay phải trầm tiểu, tay phải thuộc tỳ vị mệnh môn, chủ khí, nay mạch đi trầm tiểu tì sức nóng ấm của khí các tạng ấy suy giảm, lại còn thêm hoạt tiểu, đó là thêm đờm thấp nữa, đờm thấp này làm bón cho béo bệu.
Mạch tay trái trầm tiểu huyền khẩn, tay trái thuộc can thận chủ huyết, nay mạch đi trầm tiểu thì sưc nóng ấm của huyết suy giảm nhất là nóp lại trầm tiểu ở bộ xích thì rõ huyết vừa cạn vừa lạnh.
Huyền khẩn, huyền là khí huyết hao mòn, khẩn là nội hàn, tức là máu ra nhiều làm khí lực hao mòn, hao mòn mà lạnh này máu bị hao mòn thêm, bởi vậy biết tỳ vị và can thận hư hàn.
Tỳ hư hàn không giữ được huyết.
Thận hư hàn huyết không về ổ.
Bởi vậy rong kinh, loạn kinh.
Y lý
Hư thì phải bổ, hàn thì phải ôn, nhưng ôn bổ phải đúng vị trí của nó.
Tỳ hư phải ôn bổ cho tỳ để tỳ đòi ăn mà sinh ra huyết, sinh ra cơ nhục.
Thận hư phải ôn bổ cho thận, để thận có tinh huyết nhiều mà ấm.
Tỳ đã đủ khí, thận đã đủ huyết, khí huyết đã đủ thì vòng kinh sẽ đúng ngày đúng tháng, làm gì mà có rong kinh loạn huyết.
Khác nào trong xí nghiệp có đủ tiền để phát lương cho thợ thì tháng nào phát đều tháng ấy, nhưng nếu tháng nào thiếu tiền thì phải khất lại mấy ngày để bán đồ đạc hay vay mượn mới có tiền đủ phát.
Vậy bệnh rong kinh loạn huyết này bởi huyết thiếu huyết lạnh thì phải bồi dưỡng lạnh thì phải gây ôn ấm, không phải dùng đến nững loại thuốc vít lại như Bồ hoàng sao hắc, Kinh giới sao hắc,vv….
Nếu không căn cứ vào mạch mà nhận định cho tinh để trị như trên lại nhận định vội vàng sơ suất ròi bảo bệnh này là huyết nhiệt rồi cho lương huyết thì chẳng nững không khỏi bệnh mà còn có thể nguy.
Dược lý
- Đương quy: hòa huyết, sinh huyết và bổ huyết.
- Bạch truật: bổ tỳ cho tỳ khí phấn khởi đòi ăn.
– Hắc khương: ôn ấm trầm lặng lại hay đi xuống đến thận bộ, Hắc khương đi với Xuyên khung, biến Xuyên quy thành chất ôn ấm dẫn vào tử cung, Hắc khương đi vơi Bạch truật cũng biến Bạch truật thành chất ôn ấm dẫn vào tỳ vị.
- A giao: bồi dưỡng tỳ phế khí đỡ mệt và có chất keo để gắn vết thương nứt rạn ở tử cung các tế bào khác.
- Hương phụ: chủ bình can khí uất, can chủ huyết nhưng can khí uất lên cũng làm huyết có bệnh, bình giải can uất cũng có phần nào giải tỏa cái tư lự cho người thiếu nữ tuổi 24 mà cứ yên tâm gối chiếc chăn đơn.
- Ngãi cứu: chủ ôn kinh chỉ huyết, lại đánh tan hàn khí ở can và làm ôn ấm tỳ vị.
Cả bài thuốc 6 vị:
Ba vị Quy, Truật, Khương là chủ yếu thứ nhất.
Một vị A giao là chủ yếu thứ hai.
Còn hai vị Ngải cứu, Hương phụ chỉ là công tác phụ thuộc mà thôi, trước sau 6 vị ấy không thay đổi.
Thuốc này loại bổ để trị bệnh, uống vào khi bệnh đã hết thì người đã khỏe.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét