Rong kinh loạn huyết, bệnh án phụ khoa
RONG KINH LOẠN HUYẾT I
Bệnh nhân:……………….( nữ ), 22 tuổi.
Công nhân viên Xí nghiệp Dược phẩm 2-9.
Vào viện: ngày 27 tháng 07 năm 1978.
Chứng bệnh
Rong Kinh kéo dài 4-5 năm nay, uống thuốc Tây có đỡ rồi bị lại, đã nằm bệnh viện Từ Dũ (tháng 04-78) phải truyền 1lít máu mới đỡ, sau về nhà lại rong kinh trở lại, thường kỳ kinh kéo dài 20 ngày có khi gần hết tháng, người bệnh mệt mỏi, máu ra không đau bụng màu kinh đỏ tươi, khi ra cục đen, tháng này kinh ra 27 ngày, ngoài ra có chứng hay sốt âm.
Khám
Vọng: sắc mặt lợi lạt, hai mí mắt dưới phía trong trắng lợt, hai quầng mắt thâm đen, môi trên dưới lợt, phía trong môi dưới lợt như không có máu.
Vấn: ở độc thân
Thiết: Tay trái huyền xúc, xích thốn hai đầu đi nhỏ chìm xuống mà bộ quan ở giữa cứ đẩy cao lên mạnh, tay phải phù án hư, trầm án huyền.
Đoán bệnh: Loạn huyết, rong kinh.
Thuốc chữa.
Sài hồ | 16g | Sinh địa | 16g |
Hoàng cầm | 16g | Cam thảo | 2 g |
– Uống 3 thang tuần.
Khám kỳ I: Sau khi uống hết ba thang cho lương huyết trên kinh đỡ ra ngay, hết kinh 30-07, mạch cả hai tay quân bình hữu lực.
Thuốc y đơn cũ, ba thang- tuần.
Khám kỳ III. Kinh hết ra, ăn được, hôm qua bị cảm và huyết trắng ra nhiều.
Thuốc y đơn cũ thêm Hắc khương 8g, ba thang tuần.
Khám kỳ IV: Mạch và bệnh bình, người khỏe.
Thuốc y đơn cũ bốn thang- tuần.
Khám kỳ V: Thuốc y đơn cũ thêm Đương quy 12g, bốn thang- tuần.
Khám kỳ Vi: Thuốc y đơn cũ thêm Tục đoạn 8g, bốn thang – tuần.
Khám kỳ VII: gặp ngày hành kinh. Thuốc y đơn cũ, bỏ Hắc khương, 4 thang- tuần.
Khám kỳ VIII: Kinh hành đến nay đã 12 ngày, ăn ngủ thường, mạch tay trái trầm huyền, tay phải nhỏ.
Thuốc:
A giao | 20g | hắc khương | 12g |
Hương phụ | 8g |
– Cho 4 thang- tuần.
Khám kỳ IX: Kinh ra li rỉ, 19 ngày chưa ngừng mạch tay phải hoạt sác, tay trái huyền sác.
Thuốc y đơn đầu, thêm bạch thược 12g, 4 thang- tuần.
Khám kỳ XI: Bệnh nhân hết kinh, người khỏe, vui vẻ, sắc mặt tươi hồng, xin về nhà 1 tuần.
Mạch sáu bộ đều tốt, tuy nhiên cần chờ xem cho đến ngày điều kinh.
Thuốc;
Sài hồ | 16g | Hoàng cầm | 16g |
Sinh địa | 16g | Bạch thược | 10g |
Cam thảo | 4g | Địa cốt bì | 12g |
THẢO LUẬN
Bệnh lý
Kinh kỳ sụt, khi đầu tháng, khi giữa tháng, khi cuối tháng, khi vài 3 tháng thấy 1 lần, khi một tháng thấy 2 – 3 lần khi nhiều khi ít, không theo đúng tuần tự lưu hành đúng ngày đúng tháng của nó là khí huyết rối loạn, gọi tắt là LOẠN KINH.
Kinh kỳ thất thường tháng nọ dắt dây sang tháng kia, nhưng vài ngày lại thấy, kéo dài mấy năm dầm dè không dứt hẳn đi được, tên chữ gọi LÂM LỊCH BẤT LOẠN, nói nôm là RONG KINH.
Bệnh nhân này 22 tuổi, đang trong thời gian ba tuần thất ( 3×7) là cái tuổi huyết mạch đương thì, lại ở độc thân, bộ phận sinh dục còn nguyên vẹn, đúng ra đường kinh nguyệt của cô đúng ngày đúng tháng và đầy đủ tươi tốt mới phải, vậy mà đã loạn kinh huyết lại rong kinh kéo dài 4-5 năm liền.
Huyết là chủ sự sống của con người, huyết ra ri rỉ 4-5 năm liền, hẳn là huyết đã hao hụt quá nhiều, cho nên phía trong mí mắt dưới trắng lợt, hai quầng mắt thâm đen là can huyết mất, trong ngoài môi dưới trắng lợt là tỳ huyết mất, người mệt mỏi, sắc mặt lợt nhăn nheo là âm huyết đã sút đi thì dương khí cũng sút theo không còn đủ sức đưa lên mặt, đưa ra ngoài mà đẹp tươi.
Năm nay cô 22 tuổi mà mắc bệnh loạn huyết rong kinh đến 4-5 năm, vậy tính ra cô mắc bệnh từ 17 tuổi khi mới phát, nói ra sợ mắc cỡ và cậy sức coi thường không chịu tìm thuốc uống ngay và có tìm thuốc mà không đúng thuốc, không tìm thuốc và không đúng thuốc đều rất có hại, thêm vào đó, tuy bệnh vẫn hăng say công tác đủ đầy nhiệm vụ (cô nói) tất cả nhân tố lần làm cho trở thành loạn huyết rong kinh.
Y lý
Kinh huyết ri rỉ chảy ra kéo dài 4-5 năm, thời gian quá lâu. Phép trị: lâu thì phải vít lại (cửu giả khả cố) mất máu nhiều thì phải bù trả (tổn giả ích chi)
Hay bảo là máu ra nhiều mà đã lâu ngày là hư hàn, thì phải ôn bổ tất cả tùy nghi, đúng lý điều trị thì phải khỏi, đó là tất nhiên.
Những khoảng thời gian dài ấy hẳn là điều trị đã nhiều, nào nam y, Trung y, cũng đã lương huyết, ôn bổ, cố sáp mà lại không khỏi, lại Tây y (Bệnh viện Từ Dũ) chuyền vào người 1 lít máu (bổ huyết) đã khỏi, khi về nhà lại rong kinh trở lại.
Tất cả tại sao? Chưa phần giải đáp.
Khi tôi điều trị, với ý nghĩa đã kinh trị, nếu xem mạch mà tả xích trầm tiểu vô lực, hẳn là hư hàn nó mới rỉ lâu vật thì phải ôn bổ, tức rót máu nóng (Quy, Thực, Khương) vào ổ máu, ổ máu được ôn, ấm thì tự nhiên ngừng lại, không cần phải vít lại, tất phải khỏi.
Nhưng khi xem mạch, căn cứ vào mạch tay trái huyền xúc, tuy thấp xích thốn hai đầu đi nhỏ chìm xuống (trầm tiểu) có thể ôn bổ, nhưng thấy bổ quan ở giữa cứ đẩy cao mạnh, hiểu rằng sức đẩy cao mạnh đó can khí còn đang bực tức muốn đẩy huyết ra nhiều nữa, nên không dám ôn bổ hay tạm cho sơ tán lương huyết, bình can rồi sẽ hay ( thời khóa tôi khám bệnh nơi đây mỗi tuần có một sáng thứ sáu) tuần sau tái khám, cô uống thuốc ấy sau ba ngày kinh hết ngay, đó là may chứ không có tài giỏi chi đâu?
Tuy nhiên xét ra cũng có định kiến:
Lâm lịch bất đoạn, tà vị sơ, kinh ra dầm dề không dứt là có nhiệt tà xâm phạm (khách) vào huyết bào mà chưa sơ tán nó ra được bởi vậy, nay cho uống sơ can lương huyết đã khỏi được, nếu bệnh này không căn cứ vào mạch, cứ bảo là hư chứng mà cho ôn bổ sẽ xảy ra băng huyết, kể ra như thế cũng là hiểu phần nào đấy.
Cứ nhìn bệnh án mà tính ngày, bệnh nhân ngưng kinh từ 30-04 đến 4 tháng 9 là 36 ngày, thời gian ngưng kinh ấy vui khỏe, nhưng sao sắc mặt hãy còn tái lợt, tôi cho là do lương huyết nhiều quá (Sinh địa, Hoàng cầm) nên thêm một chút ôn bổ (Quy, Khương) cho da dẻ hồng lên, nhưng vô hiệu.
Và như vậy, tháng 8 chưa có kinh, chưa phải là điều kinh, đến 4-9 có kinh, mãi 22-9 mới hết là còn kéo dài 19 ngày chưa phải là khỏi, thời gian kéo dài đến 10 ngày tôi cho là hư hàn đã dùng thuốc vít lại (A giao), Khương, Hương phụ) cũng không ngừng.
Thế là chổ dùng thuốc này tôi hãy còn đốt.
Tôi lại trở về phép sơ can lương huyết như cũ (nhưng có thêm bạch thược) bệnh nhân uống vào lại khỏi ngay, khỏi ngay mà da dẻ sắc mặt đỏ hồng.
Tính ra bệnh ngưng kinh từ 22-9 đến 13-10 (ngày ra viện) là 21 ngày.
Nếu trước sau cứ 1 chiều sơ can lương huyết (nhưng phải có Bạch thược) có lẽ bệnh nhân mau khỏi hơn mà lại có cả điều kinh nữa, nên biết loạn huyết rong kinh này bởi huyết đã nhiệt lại có tà nhiệt, loại bệnh này nên lưu ý mạch xúc ở tả quan.
Dược lý
Đơn thuốc 1: ( 28-07-78) sơ can lương huyết, vì tả quan có mạch xúc là can khí còn đang bực tức muốn đẩy huyết ra.
Đơn thuốc 2: sơ can lương huyết.
Đơn thuốc 3: cũng sơ can lương huyết nhưng sợ mát quá nhiều sẽ lạnh thận chăng, nên thêm Hắc khương làm máu ấm lại.
Đơn thuốc 4: thuốc này và ý nghĩa cũng như trên.
Đơn 5: thuốc và ý nghĩa như trên, nhưng thêm Đương quy bổ máu và nhờ Hắc khương dẫn vào ổ máu.
Đơn 6: thuốc và ý nghĩa như trên, nhưng thêm Tục đoạn để giữ vững mạch Đới cho hết huyết trắng.
Đơn 7: thuốc và ý nghĩa như trên, nhưng bỏ Hắc hương vì gặp ngày hành kinh.
Đơn 8: kinh hành đã quá 10 ngày chưa ngưng, bỏ đơn trên, uống thuốc mới, Hắc khương dẫn A giao vào ổ máu để ôn kinh và vít lại ( cố sáp) vít lại thì phải có Hương phụ để thông khí.
Đơn 9: mạch hai tay có sác, bỏ đơn mới, trở về đơn cũ để sơ can, lương huyết và thêm Bạch thược, để đi với Sài hồ mà bình can.
Đơn 10: thuốc và ý nghĩa như trên, thêm Địa cốt bì để mát da thịt và Thăng ma để thanh vị nhiệt cho hết lở môi.
Bệnh nhân nghỉ 1 tuần về quê, không thuốc.
Đơn 11: thuốc và ý nghĩa như trên, bỏ Thăng ma vì đã hết lở môi bệnh nhân vui khỏe, sắc mặt và môi má đỏ hồn tươi đẹp, xin ra viện để trở về phục vụ công tác, xét ra chưa phải là điều kinh, nhưng đã mạnh, cho ra viện ( 13-10-1978)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét